Văn kiện hậu Công nghị TGP Hà Nội năm 2022: Chương II – Canh tân cử hành việc thờ phượng (Phần 1)

CHƯƠNG II: CANH TÂN CỬ HÀNH VIỆC THỜ PHƯỢNG
PHỤNG VỤ BÍ TÍCH VÀ Á BÍ TÍCH

 

165. Phụng vụ là trung tâm điểm của đời sống Giáo Hội. Phụng vụ biểu lộ đức tin cách trực tiếp, là hành vi tôn thờ mà qua đó con người vừa bày tỏ tâm tình yêu mến của mình với Thiên Chúa, vừa đón nhận ơn Chúa qua các cử hành đó.

Do vậy, việc canh tân đời sống đức tin phải đi đôi với việc canh tân Phụng vụ của Giáo Hội.

PHẦN I. PHỤNG VỤ BÍ TÍCH

I. BÍ TÍCH RỬA TỘI

A. Rửa tội trẻ em

Trường hợp bình thường

166. Cha xứ cần quan tâm nhắc nhở cha mẹ và những người đỡ đầu về trách nhiệm giáo dục đức tin đối với các con44.

167. Để cha mẹ và những người đỡ đầu thực sự ý thức về trách nhiệm lo liệu cho con em mình sau này có một đời sống Ki-tô giáo xứng hợp và trung thành chu toàn những nghĩa vụ gắn liền với bí tích, cha xứ cần dành một vài buổi để chuẩn bị cho họ45. Nếu hoàn cảnh không cho phép, thì trước lúc cử hành Bí tích Rửa tội, linh mục giải thích cho cha mẹ và người đỡ đầu hiểu ý nghĩa và vai trò của họ trong việc nuôi dưỡng và giáo dục đức tin cho con cái.

168. Nên làm phiếu xin rửa tội trước, với những chi tiết như trong sổ rửa tội: Tên thánh, tên gọi, ngày sinh, nơi sinh, tên cha mẹ, tên người đỡ đầu, địa chỉ, v.v…46.

Trường hợp con ngoại hôn

169. Cha xứ nên tận dụng cơ hội này để nhắc nhở và tạo điều kiện hợp thức hóa hôn phối cho cha mẹ của trẻ, nếu có thể. Trong trường hợp không thể hợp thức hóa, cha xứ cũng cần lo liệu rửa tội cho con cái họ.

170. Trường hợp con của cha mẹ lỗi hôn phối, cha xứ có thể lo liệu ban phép Rửa tội cho trẻ đó khi có sự chấp thuận ít là của cha hoặc mẹ, và có hy vọng chắc chắn là trẻ này sẽ được giáo dục trong đạo Công giáo. Đồng thời, nhân dịp này, ngài giúp cha mẹ ý thức việc sống đạo (có thể dựa vào vai trò của người đỡ đầu hay của ông bà). Nếu hoàn toàn thiếu niềm hy vọng trên, thì phải hoãn việc rửa tội, sau khi cho cha mẹ của em biết lý do47.

171. Trong cả hai trường hợp vừa nêu trên, nếu thấy cần thiết thì có thể rửa tội riêng.

Trường hợp nguy tử

172. Trẻ em nguy tử phải được rửa tội ngay, không chút trì hoãn48.

“Trong trường hợp khẩn thiết, mọi người đều có thể rửa tội, miễn là có ý làm điều Hội Thánh muốn. Nghi thức rửa tội trong trường hợp nguy tử gồm việc đổ nước lên đầu người lãnh nhận, đồng thời đọc: Tôi rửa anh (chị) nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”49.

173. Trẻ em đã rửa tội mà ở trong tình trạng nguy tử, nên được chịu phép Thêm sức50.

Trường hợp thai nhi bị sẩy

174. Trong mức độ có thể, phải rửa tội cho những thai nhi bị sẩy, nếu chúng còn sống51. Trường hợp không biết thai nhi còn sống hay đã chết, phải rửa tội hồ nghi. Nghi thức như sau: Đổ nước lên đầu người lãnh nhận, đồng thời đọc: (Tên thánh)…nếu con còn sống, tôi rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

175. Nếu chắc chắn thai nhi đã chết, tuyệt đối không rửa tội.

Rửa Tội ở đâu?

176. Nguyên tắc chung là rửa tội tại giáo xứ riêng của cha mẹ trẻ nhỏ52.

177. Khi có lý do chính đáng, cha mẹ trẻ nhỏ có thể xin rửa tội ở giáo xứ khác, thí dụ bên đàng ngoại nơi người mẹ thường về ở trong thời gian mang thai và sinh nở, hoặc nơi cha mẹ đang tạm trú. Trong trường hợp này, linh mục rửa tội ngoài trách nhiệm ghi sổ tại giáo xứ mình, thì cũng cần cấp một chứng thư rửa tội, và thông báo cho nơi mà gia đình em nhỏ có cư sở.

178. Tuyệt đối cấm rửa tội tại tư gia hay bất cứ nơi đâu ngoài nhà thờ, nhà nguyện, trừ trường hợp nguy tử53.

B. Rửa tội người lớn

179. Người thành niên muốn lãnh Bí tích Rửa tội, phải tự ý xin được rửa tội.

180. Trong trường hợp người xin rửa tội đã có gia đình, nghĩa là đã có dây hôn phối tự nhiên, thì sau khi được rửa tội, không cần cử hành hôn phối theo nghi thức Giáo luật nữa54.

181. Lưu ý ngăn trở hôn nhân: Khi tiếp nhận một người thành niên xin học đạo để rửa tội, cần sớm tìm hiểu động lực và tình trạng hôn nhân của họ. Nếu không ngăn trở gì, thì có thể rửa tội. Nếu có ngăn trở mà giải quyết được, thì giúp họ tháo gỡ ngăn trở. Nếu có ngăn trở mà không thể tháo gỡ, thì không được rửa tội (đặc biệt khi đương sự không thuộc giáo xứ của mình).

182. Trường hợp một người Công giáo sống chung bất hợp pháp về Giáo luật với một người ngoại giáo, thì sau khi rửa tội cho người ngoại giáo này, phải lưu ý hợp thức hóa hôn phối ngay cho họ, tránh để họ ở trong tình trạng bất hợp pháp sau khi được rửa tội.

183. Thời gian dự tòng thông thường là 6 tháng để đương sự có thời gian học hỏi và thực tập đời sống đức tin55. Trong trường hợp ngoại lệ và có lý do chính đáng, cha xứ có thể khôn ngoan lo liệu cho lợi ích thiêng liêng của đương sự và những người liên hệ.

184. Để tạo điều kiện cho người dự tòng thực tập đời sống đức tin, nên theo tiến trình nhập đạo trong sách Nghi thức khai tâm Kitô giáo cho người trưởng thành56, và giới thiệu người đỡ đầu cho họ ngay lúc họ bắt đầu học đạo, để cùng đồng hành với họ57.

185. Trước khi rửa tội cho một dự tòng không thuộc giáo xứ mình, cần thông báo sớm cho cha xứ của đương sự, lúc đương sự còn đang học đạo, để có thể biết thêm thông tin về đương sự trước khi rửa tội. Sau khi đã rửa tội, cũng nên thông báo cho ngài về việc đã rửa tội cho người ấy.

186. Dự tòng di dân được quyền học giáo lý tại nơi mình tạm trú, hoặc tại nơi thuận tiện. Họ có thể xin rửa tội tại nơi học giáo lý hoặc tại nơi tạm trú, nhưng linh mục phải điều tra trước khi cử hành bí tích. Trường hợp dự tòng trong các nố hôn nhân, nên gửi về cha xứ nơi lo thủ tục hôn phối cho đương sự, hoặc phải có sự đồng ý của cha xứ của đương sự. Phải chắc chắn họ không vướng mắc ngăn trở hôn phối trước khi ban các Bí tích Khai tâm cho họ.

187. Trường hợp cả gia đình theo đạo, các em dưới 7 tuổi được rửa tội theo Nghi thức Rửa tội Trẻ em; từ 7 tuổi trở lên, đương sự phải học giáo lý trước khi được rửa tội, và theo tiến trình dành cho dự tòng58.

CRửa tội, Thêm sức cho người đã đến tuổi khôn

188. Khi rửa tội cho người đến tuổi khôn theo tiến trình dự tòng, các linh mục được Đức Giám mục Giáo phận ban năng quyền Thêm sức cho họ59.

189. Trừ khi có lý do nghiêm trọng, người thành niên được lãnh nhận ba Bí tích Khai tâm cùng lúc: Rửa tội, Thêm sức, tham dự Thánh lễ và rước lễ60Không được Rửa tội người lớn mà không Thêm sức ngay, để rồi tùy tiện ghép chung với việc Thêm sức các trẻ em đã được Rửa tội lúc sơ sinh.

190. Các dự tòng nên được lãnh nhận các Bí tích Khai tâm Kitô giáo trong đêm Vọng Phục Sinh hoặc trong Thánh lễ Chúa nhật.

D. Nghi thức tiếp nhận anh chị em Tin lành

191. Việc tiếp nhận anh chị em Tin lành vào hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo được thực hiện theo nghi thức trong sách Nghi thức gia nhập Kitô giáo của người lớn61. Trong trường hợp này, linh mục cử hành nghi thức tiếp nhận cũng được Đức Giám mục Giáo phận ủy quyền ban Bí tích Thêm sức cho họ62.

192. Anh chị em Tin lành thuộc các Giáo Hội không có Bí tích Rửa tội, hoặc Bí tích Rửa tội không thành sự, hoặc hồ nghi về thành sự, thì họ phải được rửa tội theo nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người trưởng thành.

E. Người đỡ đầu

193. Người được rửa tội phải nhận một cha hoặc mẹ đỡ đầu, hoặc cả cha và mẹ đỡ đầu63. Người đỡ đầu phải hội đủ các điều kiện theo quy định của Giáo luật64 như liệt kê dưới đây:

– Phải được lựa chọn bởi chính người sắp được rửa tội, cha mẹ của đương sự hoặc người thế quyền cha mẹ; nếu không có cha mẹ và người thế quyền thì cha xứ hay thừa tác viên rửa tội sẽ lựa chọn. Người được chọn phải có khả năng và chủ ý thi hành nhiệm vụ đỡ đầu;

– Từ mười sáu tuổi trọn trở lên.

– Phải là người Công giáo, đã lãnh nhận Bí tích Thêm sức và Bí tích Thánh Thể, đồng thời có đời sống xứng hợp với đức tin và chức vụ sắp đảm nhận;

– Không mắc một hình phạt Giáo luật đã được tuyên kết và tuyên bố hợp lệ;

– Không phải là cha hay mẹ của người được rửa tội.

F. Ghi sổ Rửa tội

194. Cha xứ tại nơi cử hành Bí tích Rửa tội phải cẩn thận ghi chép và ký ngay vào Sổ Rửa tội của giáo xứ sau khi cử hành65. Ngài cũng nên cấp Chứng thư Rửa tội cho gia đình (đối với trẻ nhỏ) hoặc cho đương sự (đối với người lớn) và thông báo cho nơi mà đương sự có cư sở.

G. Y phục của linh mục khi cử hành Bí tích Rửa tội

195. Các linh mục khi cử hành nghi thức rửa tội ngoài Thánh lễ, phải mặc áo dài trắng (alba), đeo dây các phép trắng cùng với áo choàng trắng.

II. BÍ TÍCH THÊM SỨC

A. Nơi cử hành

196. Nên cử hành Bí tích Thêm sức trong nhà thờ và trong Thánh lễ66.

B. Thừa tác viên Bí tích Thêm sức

197. Thừa tác viên thông thường của Bí tích Thêm sức là Giám mục67 và những vị được luật đồng hóa với Giám mục Giáo phận, trong giới hạn thẩm quyền của mình;

198. Bệnh nhân trong cơn nguy tử thì bất cứ linh mục nào cũng có thể ban bí tích này68.

199. Khi linh mục rửa tội cho người lớn thì được ban năng quyền cử hành Bí tích Thêm sức.

200. Trường hợp người cử hành Bí tích Hôn phối mà chưa lãnh nhận Bí tích Thêm sức, cha xứ phải liệu cho họ được lãnh nhận Bí tích Thêm sức trước khi cử hành hôn phối. Trong trường hợp này, cha xứ cần xin năng quyền từ Đức Giám mục.

C. Người lãnh nhận Bí tích Thêm sức

201. Mọi người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội mà chưa lãnh nhận Bí tích Thêm sức69 và đã tới tuổi khôn đều có thể lãnh nhận bí tích này70.

202. Trong Tổng Giáo phận Hà Nội, các ứng viên lãnh nhận Bí tích Thêm sức thông thường phải từ 12 tuổi trở lên và đã được chuẩn bị chu đáo về giáo lý, tập nghi thức, tĩnh tâm và lãnh nhận Bí tích Hoà giải, đồng thời cũng có khả năng lặp lại các lời hứa khi chịu phép Rửa tội71.

D. Người đỡ đầu trong Bí tích Thêm sức

203. Người lãnh nhận Bí tích Thêm sức phải có một người đỡ đầu. “Bổn phận của người này là giúp người chịu Bí tích Thêm sức sống như nhân chứng đích thực của Chúa Kitô và trung kiên chu toàn những bổn phận gắn liền với bí tích ấy”72.

204. Người đỡ đầu phải hội đủ các điều kiện theo quy định của Giáo luật73 giống như người đỡ đầu trong Bí tích Rửa tội.

205. Nên chọn người đỡ đầu là người đã đảm nhận nhiệm vụ ấy trong Bí tích Rửa tội74.

E. Ghi sổ Thêm sức

206. Những thông tin phải được ghi vào Sổ Thêm sức bao gồm: tên thánh, họ và tên gọi của người đã lãnh nhận bí tích, của thừa tác viên, của cha mẹ và của người đỡ đầu; nơi và ngày ban Bí tích Thêm sức.

207. Sổ Thêm sức được làm thành hai bản, một bản lưu tại giáo xứ và một bản gửi về Văn khố Toà Tổng Giám mục. Những giáo xứ gửi người lãnh nhận Bí tích Thêm sức tại một giáo xứ khác thì cũng phải làm một sổ riêng để lưu tại giáo xứ của mình.

208. Cha xứ nơi cử hành Bí tích Thêm sức phải viết giấy thông báo tới nơi các thụ nhân đã được Rửa tội để ghi chú vào Sổ Rửa tội75.

III. BÍ TÍCH THÁNH THỂ

A. Những quy định chung

Nơi cử hành Thánh lễ

209. Linh mục phải cử hành Thánh lễ tại một nơi thánh (nhà thờ, nhà nguyện, vườn thánh). Ngoài những nơi này, phải xin phép Đức Giám mục Giáo phận76.

210. Linh mục không bao giờ được phép cử hành Thánh lễ trong một nơi thờ tự hoặc một nơi tôn nghiêm của một tôn giáo không phải Công giáo.

Cầu nguyện trước và sau Thánh lễ

211. Linh mục cần phải dọn mình cách xứng hợp bằng lời cầu nguyện trước khi cử hành Thánh lễ và tạ ơn Thiên Chúa sau khi cử hành Thánh lễ77.

212. Vì sự thánh thiêng của Thánh lễ và cử hành Thánh lễ là hướng về Thiên Chúa, nên khi Thánh lễ đã bắt đầu với việc chủ sự làm Dấu Thánh giá, không được thêm thắt những nghi thức ngoài Phụng vụ như đón rước khách, giới thiệu quý cha đồng tế, tặng hoa… ngoại trừ các Thánh lễ có nghi thức đặc biệt như đặt cha chính xứ, quyết định thiết lập giáo xứ…

213. Để đảm bảo bầu khí cầu nguyện sau Thánh lễ, không tổ chức chụp ảnh ngay trong nhà thờ, khi cộng đoàn còn đang hát kết lễ hoặc đọc kinh sau lễ.

214. Các nghi thức chỉ được cử hành trong Thánh lễ theo như Sách lễ Rôma và sách nghi thức quy định. Không tuyên hứa thiếu nhi Thánh Thể, trao bằng giáo lý, trao giấy khen học sinh giỏi hay bất cứ hình thức nào tương tự ngay sau bài giảng hay sau lời nguyện hiệp lễ. Nên đưa các hoạt động này tách rời khỏi Thánh lễ (trước Thánh lễ hoặc sau phép lành).

215. Đối với các Thánh lễ cung hiến bàn thờ, nhà thờ, làm phép nhà thờ, nhà giáo lý và nhà mục vụ… không tổ chức việc cắt băng khánh thành, vốn chỉ mang tính xã hội.

216. Tránh làm giảm sự thánh thiêng của Thánh lễ và nhầm lẫn với các cuộc hội họp xã hội. Các Thánh lễ ngoài trời không nên trang trí phông nền với khẩu hiệu, tiêu đề buổi lễ (ví dụ: Thánh lễ Tạ ơn tân linh mục…) làm lu mờ các yếu tố quan trọng khác cần cho Thánh lễ, như thánh giá, bàn thờ, giảng đài, ghế chủ toạ…

Lễ phục dành cho cử hành Thánh lễ

217. Lễ phục dành cho cử hành Thánh lễ là áo dài mầu trắng (alba), dây các phép (stola) và áo lễ (casula) với mầu sắc theo quy định Phụng vụ.

218. Không được phép bỏ dây stola khi mặc áo lễ78.

219. Khi có lý do chính đáng, hoặc trong trường hợp không thể tiên liệu, linh mục đồng tế có thể chỉ mặc áo alba và mang dây stola79.

220. Không được phép cử hành Thánh lễ mà không mặc lễ phục, hoặc chỉ mang dây stola trên áo thụng của tu viện hay trên tu phục hoặc áo thường80.

221. Trong Thánh lễ an táng hoặc cầu hồn, các linh mục không được đeo khăn tang ngoài áo lễ, vì khăn tang không phải là phẩm phục Phụng vụ. Cũng vậy, không đeo khăn Thiếu nhi Thánh Thể hay bất cứ thứ gì khác ngoài phẩm phục phụng vụ đã quy định.

222. Chỉ mặc lễ phục màu hồng vào các Thánh lễ Chúa nhật III mùa Vọng và Chúa nhật IV mùa Chay; không mặc lễ phục mầu hồng trong bất cứ Thánh lễ nào khác, kể cả lễ hôn phối.

Cuộc rước khởi đầu Thánh lễ

223. Cuộc rước khởi đầu Thánh lễ được trình bày trong Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, số 120 như sau: “Khi giáo dân đã tập hợp, vị tư tế và các thừa tác viên mặc phẩm phục tiến tới bàn thờ theo thứ tự sau đây:

– Người mang bình hương có bỏ hương sẵn, nếu có xông hương;

– Các thừa tác viên cầm nến và thầy giúp lễ hay một thừa tác viên khác cầm Thánh giá đi giữa họ;

– Các thầy giúp lễ và các thừa tác viên khác;

– Thầy đọc sách hoặc phó tế rước sách Tin Mừng (không phải sách Bài đọc);

– Các linh mục đồng tế (nếu có);

– Vị chủ tế.

224. Trong các Thánh lễ đồng tế, các linh mục xếp hàng đi rước theo thứ tự: lớp chịu chức mới nhất đi đầu, rồi lần lượt theo năm chịu chức. Khi đoàn đồng tế tiến lên hôn bàn thờ và về vị trí của mình, các linh mục đứng hát ca nhập lễ cùng với cộng đoàn Phụng vụ. Các ngài không ngồi vì Thánh lễ đã bắt đầu.

Đọc Sách thánh và hát Đáp ca

225. Người đọc Sách thánh, hát Đáp ca, đọc Lời nguyện tín hữu phải là tín hữu Công giáo. Những người này phải chuẩn bị phận vụ của mình cách chu đáo: cầu nguyện và dọn đọc trước; mặc y phục xứng hợp; có giọng đọc rõ ràng, không bị ngọng hay nói lắp. Những người chưa được rửa tội hoặc những người đang mắc ngăn trở hôn phối công khai không được thực hiện các công việc này.

226. Người đọc Sách thánh không tiến lên giảng đài khi linh mục chủ tế chưa chấm dứt lời nguyện nhập lễ, mà chỉ tiến lên khi cộng đoàn đã thưa: Amen.

227. Người hát Đáp ca hay đọc Lời nguyện tín hữu, khi tiến lên giảng đài, không giơ cao sách như rước sách Tin Mừng, chỉ cầm sách ngang thân người.

228. Giảng đài là nơi thích hợp để đọc Lời nguyện tín hữu. Không đọc Lời nguyện tín hữu tại gác đàn hay một nơi khác không xứng hợp.

229. Không được rao lịch hay đọc thông báo ở giảng đài. Những việc này cần làm trước khi linh mục tiến ra bàn thờ và ở một vị trí khác trên cung thánh.

Chất thể dành cho cử hành Thánh lễ

230. Hy tế Thánh Thể phải được cử hành với bánh không men, bằng bột mì nguyên chất và mới chế biến, không hư mốc81.

231. Hy tế Thánh Thể phải được cử hành với rượu nho tự nhiên, nguyên chất và không biến chất, nghĩa là không pha vào đó những chất khác. Phải cẩn thận gìn giữ rượu nho dùng cho Phép Thánh Thể ở tình trạng hoàn hảo, và theo dõi đừng để rượu lễ bị chua. Tuyệt đối cấm sử dụng rượu mà có sự nghi ngờ về tính xác thực và nguồn gốc của nó82.

232. Nếu có dâng lễ vật thì chỉ được dâng bánh và rượu được sử dụng để truyền phép trong Thánh lễ đó. Không dâng bánh rượu rồi đem cất đi.

Các bản văn và các vật dụng trong Phụng vụ

233. Phải sử dụng Sách lễ và Sách Bài đọc đã được chuẩn nhận bởi thẩm quyền Giáo Hội, không dùng bản rời (chỉ với một vài tờ giấy in tạm) bài đọc cho Thánh lễ đó.

234. Nghiêm cấm các linh mục và phó tế tự ý thay đổi, hoặc thêm bớt các bản văn của Phụng Vụ thánh83.

235. Trong cử hành Thánh lễ, Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể liên kết chặt chẽ với nhau và hợp thành một cử hành phụng tự duy nhất. Không được phép tách rời hai phần này, cũng không được cử hành từng phần vào những giờ và những nơi khác nhau84.

236. Các vật dụng được sử dụng trong Phụng vụ phải là những đồ được sản xuất dành riêng cho Phụng vụ, không tuỳ tiện sử dụng những vật dụng sinh hoạt thường ngày vào việc Phụng vụ như: chén, đĩa dâng lễ và bình đựng Mình Thánh bằng sành sứ, lọ rượu nước bằng đồ gia dụng…

237. Các vật dụng thánh như phẩm phục tế lễ, chén đĩa thánh, khăn thánh… phải được làm phép trước khi sử dụng trong Phụng vụ.

Số Thánh lễ linh mục cử hành mỗi ngày

238. Các linh mục chỉ được cử hành hay đồng tế Thánh lễ một lần trong ngày85.

239. Khi có lý do chính đáng hay do nhu cầu mục vụ, các linh mục trong Tổng Giáo phận Hà Nội được cử hành tối đa ba Thánh lễ trong ngày thường, và bốn Thánh lễ vào ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc86.

240. Linh mục chỉ được đồng tế một lần trong ngày. Nếu có lý do thực sự cần thiết, linh mục muốn đồng tế lần thứ hai trong ngày, phải xin phép Bề trên.

B. Bổng lễ

Các quy định chung

241. Phải áp dụng từng ý chỉ của người xin cho từng Thánh lễ, dù bổng lễ nhỏ87.

242. Không được phép gom nhiều bổng lễ với nhiều ý lễ khác nhau, rồi chỉ dâng một Thánh lễ cho tất cả các ý chỉ ấy88.

243. Tại Việt Nam, theo quyết định Prot. N. 20103788 ngày 28/11/2011 của Bộ Giáo sĩ, Tòa Thánh ban đặc ân cho các Giám mục Giáo phận tại Việt Nam được phép gộp các bổng lễ nhỏ hơn 10 USD thành một bổng lễ 10 USD. Bề trên Tổng Giáo phận Hà Nội cho phép các linh mục được gộp các bổng lễ theo quyết định này89.

244. Trường hợp có nhiều người xin dâng lễ, các linh mục có thể dâng lễ gộp theo các quy định được đề cập trong Sắc lệnh Mos iugiter của Bộ Giáo sĩ như sau90:

– Không cử hành Thánh lễ gộp quá hai lần trong một tuần tại một nhà thờ;

– Ấn định công khai ngày, giờ và nơi cử hành Thánh lễ gộp;

– Người xin dâng lễ đã được thông báo trước rõ ràng và chấp thuận để ý lễ họ xin, được chỉ cùng với những ý lễ khác;

– Linh mục cử hành Thánh lễ gộp, nếu là Thánh lễ thứ nhất trong ngày thì được hưởng 300.000 VNĐ (Ba trăm ngàn đồng); nếu là Thánh lễ thứ hai trong ngày thì được hưởng 250.000 VNĐ (Hai trăm năm mươi ngàn đồng). Số tiền còn lại, linh mục phải gửi về cho Đấng Bản quyền theo quy định của điều 951 §1. Ngài sẽ dành số tiền ấy cho các mục tiêu do Giáo luật ấn định, như giúp đào tạo giáo sĩ, nâng đỡ các thừa tác viên, giúp đỡ các giáo xứ nghèo…91

Bổng lễ thứ hai, thứ ba (bina, trina)

245. Bổng lễ thứ hai (bina), thứ ba (trina) là bổng lễ cử hành Thánh lễ thứ hai hoặc thứ ba trong ngày92.

246. Linh mục cử hành Thánh lễ thứ hai, thứ ba trong ngày được giữ lại 30% bổng lễ ấy để chi phí di chuyển hay dầu đèn, còn 70% gửi về Tòa Giám mục93.

Bổng lễ đồng tế

247. Trong một ngày, linh mục dâng lễ và đã nhận một bổng lễ rồi, thì không được nhận một bổng lễ nữa khi đồng tế, dù dưới bất cứ danh nghĩa nào94.

Các hình thức “Lễ hậu” hay “Lễ đời đời”

248. “Lễ hậu” là linh mục nhận một số tiền hoặc tài sản của một người đang sống, với mục đích sẽ dâng lễ cho họ sau khi người này qua đời.

249. “Lễ đời đời” là linh mục nhận một số tiền hoặc tài sản và hứa sẽ dâng lễ suốt đời theo ý của người xin.

250. Cả hai hình thức lễ hậu và lễ đời đời đều hoàn toàn bị cấm

Tiền dâng của lễ (quen gọi là tiền giỏ, tiền thau….)

251. Thời điểm thích hợp cho việc quyên góp tiền dâng lễ vật bắt đầu từ khi đọc lời nguyện tín hữu và kết thúc trước kinh “Thánh, Thánh, Thánh…”.

252. Theo truyền thống từ thời các Tông đồ, số tiền dâng lễ vật sẽ được dùng vào việc nuôi dưỡng hàng giáo sĩ, làm việc bác ái, và chi phí cho các sinh hoạt của Giáo Hội (bảo dưỡng hoặc xây dựng nhà thờ, nhà xứ…).

253. Cần phải khẳng định, tiền này là tài sản của Giáo Hội, các linh mục không được lấy làm của riêng.

254. Không quyên góp tiền bằng hình thức dâng lễ vật trong Thánh lễ. Nếu cần phải quyên góp tiền vì lý do chính đáng, chẳng hạn xây dựng nhà thờ, nhà xứ, nhà giáo lý… thì có thể quyên góp sau khi kết thúc lời nguyện hiệp lễ.

Thánh lễ đồng tế

255. Ngoài những Thánh lễ được đồng tế theo luật chung95, trong Tổng Giáo phận Hà Nội, các linh mục cũng được đồng tế trong các trường hợp sau:

256. Lễ an táng96:

– Giáo sĩ, tu sĩ, chủng sinh;

– Cha mẹ của giáo sĩ, tu sĩ và chủng sinh;

– Những người làm việc trong Ban Mục vụ giáo xứ, giáo họ (vợ hoặc chồng). Chỉ các linh mục từng là cha xứ, cha phó của giáo xứ mới có thể đồng tế trong trường hợp này;

– Những linh mục có liên hệ họ hàng với người quá cố (ông, bà, chú, bác, cô, cậu, mợ, dì, dượng, anh, chị, em, v.v…) có thể đồng tế trong Thánh lễ an táng.

257. Lễ giỗ đầu và mãn tang cha mẹ của giáo sĩ, tu sĩ và chủng sinh.

258. Tất cả các trường hợp khác, khi có nhu cầu đồng tế, các linh mục phải xin phép Đức Giám mục Giáo phận.

Rước Mình Thánh được truyền phép trong Thánh lễ

259. Giáo Hội buộc các linh mục, khi chủ sự hoặc đồng tế Thánh lễ, phải rước cả Mình Thánh và Máu Thánh được truyền phép trong chính Thánh lễ mà các ngài cử hành.

260. Giáo Hội mong ước, các tín hữu được rước Mình Thánh được truyền phép trong chính Thánh lễ mà họ đang tham dự97.

261. Vì vậy, phải hết sức tránh tình trạng truyền phép quá nhiều, rồi cho rước lễ với Mình Thánh dư lại từ các Thánh lễ trước, và lại cất Mình Thánh mới vào nhà tạm để cho rước lễ vào các Thánh lễ sau.

Thánh lễ an táng và cầu hồn
Thánh lễ an táng và Nghi thức an táng

262. Cần phải phân biệt sự khác nhau giữa Thánh lễ an táng với Nghi thức phó dâng và từ biệt lần cuối (quen gọi là “làm phép xác”)98.

– Thánh lễ an táng là cử hành Thánh lễ với các bản văn Phụng vụ về lễ cầu hồn khi có thi hài người quá cố hiện diện.

– Nghi thức phó dâng và từ biệt lần cuối là cử hành nghi thức Công giáo trước khi đem thi hài đi an táng.

263. Thông thường nghi thức phó dâng và từ biệt lần cuối được cử hành ngay sau khi Thánh lễ an táng kết thúc.

264. Khi bắt buộc phải an táng thi hài người quá cố vào những ngày luật Phụng vụ không cho phép cử hành Thánh lễ an táng, có thể cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt lần cuối, nhưng phải hoàn toàn tách rời khỏi Thánh lễ. Thánh lễ cầu hồn cho người quá cố sẽ được cử hành vào một ngày thuận tiện khác99. Như vậy, có thể cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt lần cuối trong bất cứ ngày nào, kể cả trong Tam Nhật Vượt Qua. Tuy vậy, việc để thi hài trong Thánh lễ (mặc dù Thánh lễ được cử hành theo đúng lịch Phụng vụ), rồi chờ tới hết Thánh lễ để cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt cũng không được phép.

265. Không được cử hành Thánh lễ an táng vào những ngày sau: Thứ Năm Tuần Thánh, Tam Nhật Vượt Qua, các Lễ trọng buộc và các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục Sinh100.

266. Nghi thức phó dâng và từ biệt lần cuối cho người qua đời thông thường được cử hành tại nhà thờ. Tuy nhiên, nếu không thuận tiện, nghi thức này có thể cử hành tại gia đình người quá cố hoặc tại nhà tang lễ.

267. Chỉ cử hành lễ an táng khi có thi hài.

268. Trong Tổng Giáo phận Hà Nội, không cử hành lễ an táng cho người cố ý tự tử, nhưng vẫn có thể dâng lễ cầu hồn cho họ. Được làm phép xác và cử hành nghi thức tiễn đưa và từ biệt như người bình thường. Quy định này nhằm tránh gương xấu trong cộng đoàn101.

Thánh lễ cầu hồn

269. Được cử hành Thánh lễ cầu cho người vừa qua đời (lễ đưa chân) và Lễ giỗ đầu trong những ngày thuộc tuần Bát Nhật Giáng Sinh, những ngày có lễ nhớ buộc, những ngày trong tuần mùa Chay và mùa Phục Sinh mà không phải là thứ Tư Lễ Tro hay Tuần Thánh (x. Bảng ghi ngày Phụng Vụ, số 9)102.

270. Tại Tổng Giáo phận Hà Nội, các linh mục cử hành Thánh lễ giỗ mãn tang cho các tín hữu như bậc Lễ giỗ đầu.

271. Lễ cầu hồn hằng ngày chỉ được phép cử hành vào ngày thường trong mùa Thường niên, khi không gặp lễ nhớ buộc (IM, số 381). Tại Việt Nam, nhiều nơi có thói quen dâng lễ giỗ dịp 30 ngày, 50 ngày, 100 ngày, 2 năm, 4 năm, 10 năm… Các linh mục nên giải thích ý nghĩa của thánh lễ giỗ theo giáo lý Công giáo, để tránh cách hiểu ngày giỗ theo phong tục Việt Nam. Các lễ giỗ này là lễ cầu hồn hằng ngày và chỉ được phép cử hành vào ngày thường của mùa Thường niên (x. Bảng ghi ngày Phụng vụ, số 13).

272. Không đặt di ảnh của người quá cố trong nhà thờ vào các dịp lễ giỗ hoặc cầu hồn. Việc đặt di ảnh không phải là yếu tố phải có trong Phụng vụ, hơn nữa việc này có thể dẫn tới lầm lẫn với ảnh tượng các vị chân phước và các thánh.

Thánh lễ với tro cốt người qua đời

273. Bộ Phụng tự cho rằng, trong nghi thức an táng, với sự hiện diện của thân xác, Giáo Hội bày tỏ lòng tôn kính đối với thân xác, vốn đã được thánh hóa nhờ Bí tích Rửa tội, và trở nên đền thờ của Thánh Thần, tro cốt của người qua đời không còn bộc lộ được dấu hiệu đó nữa, do đó, không thể dành cho tro cốt những nghi thức dành cho thân xác, tựa như xông hương103.

274. Vì vậy, không thể cử hành Thánh lễ an táng cũng như không thể cử hành nghi thức tiễn biệt cho người đã qua đời với tro cốt. Tuy nhiên, khi có lý do chính đáng (dịch bệnh, hoặc người đã qua đời mắc bệnh truyền nhiễm cần phải hỏa táng trước khi mang tới nhà thờ), có thể cử hành lễ cầu hồn (bản văn dành cho lễ cầu hồn chứ không phải là bản văn dành cho lễ an táng) với tro cốt của người đã qua đời. Sau lời nguyện hiệp lễ, không cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt, nhưng có thể xông hương và rảy nước thánh lên bình đựng tro cốt người đã qua đời.

Giúp lễ nam hay nữ

275. Các linh mục cần hết sức trân trọng truyền thống đáng kính dùng các trẻ em nam giúp lễ, vì chính từ các lễ sinh này, nhiều ơn gọi linh mục đã nảy sinh104.

Vì vậy, trong Tổng Giáo phận Hà Nội, chỉ giáo xứ, giáo họ nào thực sự có nhu cầu mới có thể cho phép các trẻ em nữ giúp lễ, và chỉ cho phép các em này giúp lễ tới tối đa 12 tuổi.

Thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ

276. Thừa tác viên thông thường cho rước lễ là Giám mục, linh mục và phó tế, vì các ngài đã lãnh nhận Bí tích Truyền Chức Thánh105. Ngoài các thừa tác viên thông thường, các chủng sinh đã lãnh nhận Tác vụ Giúp lễ là thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, kể cả ngoài lúc cử hành Thánh lễ. Giám mục Giáo phận cũng có thể cho phép một số giáo dân với tính cách là thừa tác viên ngoại thường, từng lần (ad actum) hay một thời gian (ad tempus), theo các quy tắc của Giáo luật106.

Các điều kiện cần thiết

277. Người được tuyển chọn làm thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ phải là tín hữu có đời sống đức tin tốt, bản thân và gia đình không có điều tiếng xấu trong giáo xứ hoặc giáo họ. Nếu là giáo dân, thường là nam giới, tuổi đời từ 55 đến 70, có sức khỏe thể lý và tâm lý đủ để chu toàn công việc được giao phó.

278. Thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ buộc phải được đào tạo cách thích hợp và cần thiết để chu toàn nhiệm vụ của mình cách xứng đáng và buộc phải hoàn thành nhiệm vụ này một cách ý thức, tận tâm và cần mẫn107.

Thừa tác viên từng lần (ad actum)

279. Trong một trường hợp đặc biệt, và không thể tiên liệu trước, linh mục chủ tế có thể cho phép một tín hữu đạo đức, có uy tín cho rước lễ trong lần đó108.

Thừa tác viên lâu dài (ad tempus)

280. Vì nhu cầu thực sự cần thiết109 mà lại thiếu các thừa tác viên thông thường cho rước lễ, cha xứ có thể đệ đơn xin Đấng Bản quyền địa phương ủy nhiệm những thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ110 trong thời gian ba năm111.

Y phục của các thừa tác viên ngoại thường

281. Thầy giúp lễ, đọc sách và các thừa tác viên ngoại thường có thể mặc áo alba hay áo nào khác được Hội đồng Giám mục chấp thuận hợp pháp cho từng miền112.

282. “Người giáo dân không bao giờ được phép đảm trách các chức vụ của phó tế hay linh mục, và mặc những y phục dành riêng cho các ngài, kể cả những y phục tương tự113.

283. Vì vậy, quy định y phục dành cho các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ trong Tổng Giáo phận Hà Nội như sau:

– Áo alba như Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma qui định.

– Áo dài khăn xếp, mầu xanh hoặc trắng.

Một số điều phải tuân giữ khi thi hành công việc

284. Thừa tác viên ngoại thường cần phải tham dự Thánh lễ mà họ cho các tín hữu rước lễ cũng như chuẩn bị tâm hồn cách xứng đáng nhất cho việc phục vụ thánh mà họ sẽ thi hành.

285. Thừa tác viên ngoại thường không được tự mình rước lễ như các linh mục đồng tế, mà phải nhận Mình Thánh từ tay linh mục114.

286. Thừa tác viên ngoại thường, mỗi khi cầm bình đựng Mình Thánh, phải cung kính, không cầm thấp ngang bụng hay ngang thắt lưng, nhưng phải cầm cao ngang ngực hay ngang với cằm.

287. Mỗi lần trao Mình Thánh cho giáo dân, thừa tác viên nâng Mình Thánh lên và xướng “Mình Thánh Chúa Ki-tô” rồi trao cho người rước lễ115. Lưu ý không cầm nhiều Mình Thánh một lần và đưa liên tục cho các người rước lễ. Đây là hành vi bất kính đối với Mình Thánh Chúa.

288. Các thừa tác viên ngoại thường không cho rước lễ khi có đủ các thừa tác viên có chức thánh.

289. Các thừa tác viên ngoại thường, trong mọi hoàn cảnh, không được phép nhờ người khác không phải là thừa tác viên ngoại thường thay thế mình cho rước lễ trong Thánh lễ và ngoài Thánh lễ116.

290. Các tín hữu có thể rước lễ bằng miệng hoặc bằng tay. Nếu họ rước lễ bằng tay, họ phải rước lễ trước mặt thừa tác viên, và họ chỉ được rời đi sau khi họ đã đưa Mình Thánh vào miệng. Vì vậy, khi cho các tín hữu rước lễ bằng tay, thừa tác viên phải giám sát việc này117.

291. Thừa tác viên ngoại thường không được dồn Mình Thánh từ các bình đựng Mình Thánh và tráng chén hay tráng bình. Đây là việc dành riêng cho các linh mục, phó tế và thầy đã nhận tác vụ giúp lễ118

292. Các thừa tác viên ngoại thường được phép rước Mình Thánh cho bệnh nhân và mở cửa nhà chầu cho giáo dân chầu Thánh Thể.

Chầu Thánh Thể

Ý nghĩa việc chầu Thánh Thể

293. Việc chầu Thánh Thể nhằm hai mục đích căn bản sau đây: Biểu lộ đức tin công khai vào sự hiện diện của Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh thể; và mời gọi các tín hữu sống hiệp thông với Ngài trong bí tích này.

Những lưu ý khi chầu Thánh Thể

Để biểu lộ ý nghĩa đích thực của việc chầu Thánh Thể, Giáo Hội đưa ra một số quy định cụ thể như sau (EM, số 82-86):

294. Có thể chầu Thánh Thể mọi ngày trong tuần. Tuy nhiên, nếu không thể chầu Thánh Thể hằng ngày, thì ngày Chúa nhật và thứ Năm là hai ngày được ưu tiên để chầu Thánh Thể. Vì ngày Chúa nhật kính nhớ Chúa Giê-su Phục Sinh, ngày thứ Năm kính nhớ Chúa Giê-su thiết lập Bí tích Thánh Thể.

295. Các giáo xứ, giáo họ nên tổ chức Chầu Thánh Thể vào các ngày Thứ Sáu đầu tháng, đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu.

296. Về thời gian chầu Thánh Thể: Chầu Thánh Thể lâu giờ và ngắn giờ. Chầu Thánh Thể lâu giờ kéo dài một hoặc nhiều ngày. Ví dụ: Ngày chầu lượt của giáo xứ. Ngày chầu “24 giờ cho Chúa”. Chầu Thánh Thể ngắn giờ thường kéo dài trên dưới một giờ.

297. Không được phép vừa cử hành Thánh lễ vừa chầu Thánh Thể vào cùng một lúc, trong cùng một nhà thờ (x. RS, số 140).

298. Chầu trọng thể: Chủ sự là thừa tác viên có chức thánh và khi kết thúc chầu có xông hương, đọc lời nguyện và ban phép lành với Mình Thánh Chúa. Khi đọc lời nguyện cầu cho Đức Giáo hoàng, chủ sự quỳ; khi đọc lời nguyện Thánh Thể, chủ sự đứng.

299. Chầu đơn giản: Chủ sự là thừa tác viên ngoại thường, không xông hương, không đọc lời nguyện (cầu cho Đức Giáo hoàng và lời nguyện Thánh Thể) và không ban phép lành với Mình Thánh Chúa.

300. Trong lãnh thổ Tổng Giáo phận Hà Nội, những người không có chức thánh (nam, nữ tu sĩ, chủng sinh, giáo dân đã được ủy quyền cách hợp pháp) chỉ được Đức Giám mục Giáo phận cho phép chủ sự chầu Mình Thánh với hình thức đơn giản, tức là mở và đóng cửa Nhà chầu. Trong một vài trường hợp cụ thể, được phép riêng của Đức Giám mục, người không có chức thánh (tu sĩ) được đặt Mình Thánh vào hào quang (mặt nhật) để chầu Mình Thánh trong nhà nguyện của Dòng tu. Dĩ nhiên, khi những người không có chức thánh chủ sự chầu Thánh Thể, họ không được đọc lời nguyện, xông hương và ban phép lành với Mình Thánh Chúa như các thừa tác viên có chức thánh.

301. Không được đặt Mình Thánh Chúa chỉ nhằm mục đích ban phép lành mà thôi.

302. Đối tượng chính của việc chầu Mình Thánh là Chúa Giê-su, nên những lời nguyện và suy niệm tập trung vào Chúa Giê-su và các mầu nhiệm của Ngài. Vì thế, không suy niệm về Đức Mẹ, Thánh Giu-se, hoặc các Thánh.

303. Khi chầu Mình Thánh Chúa có thể đọc kinh, lần hạt Mân Côi (x. RS, số 137) đọc các bài suy niệm… đồng thời cũng cần lưu tâm tới thời gian thinh lặng trước Thánh Thể.

304. Các tín hữu làm dấu Thánh giá trên mình khi thừa tác viên ban phép lành với Mình Thánh Chúa.

305. Khi đọc lời cầu nguyện cho Đức Giáo hoàng, thừa tác viên quỳ và không đọc “chúng ta dâng lời cầu nguyện”.

306. Khi đọc lời cầu nguyện với Chúa Giê-su Thánh Thể, các thừa tác viên đứng và đọc “chúng ta dâng lời cầu nguyện”.

Ngày chầu lượt

307. Ngày chầu lượt hay còn được gọi là ngày chầu Mình Thánh Chúa thay mặt Tổng Giáo phận là truyền thống tốt đẹp lâu đời của Tổng Giáo phận cần phải được duy trì và phát triển. Ngày chầu này cần phải được diễn ra liên tục từ sáng cho tới chiều tối. Không nên tùy tiện chầu nửa ngày, hoặc chầu vài giờ rồi lại nghỉ giải lao…

IV. BÍ TÍCH HÒA GIẢI (GIẢI TỘI)

A. Năng quyền giải tội

308. Ngoài quyền thánh chức, linh mục buộc phải có năng quyền giải tội mới có thể giải tội thành sự119.

309. Năng quyền giải tội do chức vụ: Đấng Bản quyền địa phương, các cha xứ hoặc quản xứ có năng quyền giải tội do chức vụ120.

310. Năng quyền giải tội được ban: Các linh mục khác, không thuộc các linh mục nêu trên, nhận năng quyền giải tội do vị có thẩm quyền ban121.

311. Năng quyền được ban do Đấng Bản quyền địa phương nơi linh mục có cư sở hoặc nhập tịch, có thể thi hành ở khắp nơi và với bất cứ tín hữu nào122.

312. Năng quyền được ban do Bề trên các Hội dòng hoặc Tu đoàn Giáo sĩ thuộc Luật Giáo hoàng chỉ được áp dụng đối với các thành viên hoặc những người cư ngụ trong các nhà của Hội dòng hay Tu đoàn đó123.

313. Cần được cấp lại năng quyền giải tội khi xuất tịch khỏi Giáo phận, hay do mất cư sở124.

B. Giải tội trong trường hợp nguy tử

314. Mọi linh mục, dù không có năng quyền giải tội hoặc đang mắc vạ, cũng có thể tha hết mọi tội và vạ cách thành sự và hợp pháp cho một hối nhân lâm cơn nguy tử125.

C. Các quy định khác

315. Các cha xứ cần phải ấn định thời gian biểu ban phép Giải tội, để tạo điều kiện thuận lợi cho các tín hữu muốn lãnh nhận bí tích này126.

316. Trừ khi có lý do chính đáng, linh mục không được giải tội ở ngoài tòa giải tội. Tòa giải tội phải được đặt ở nơi dễ thấy và phải có vách che ngăn cách thừa tác viên giải tội với hối nhân127.

317. Khi giải tội, linh mục mặc áo alba hoặc soutane và đeo dây stola màu tím.

318. Việc xưng tội và xá giải riêng là cách thức thông thường duy nhất để lãnh nhận Bí tích Giải tội. Xưng tội và giải tội tập thể chỉ được áp dụng trong trường hợp nguy tử, hoặc những trường hợp khẩn thiết khác do Đức Giám mục Giáo phận thẩm định và cho phép128.

319. Không được phép giải tội gián tiếp qua các phương tiện truyền thông, chẳng hạn điện thoại, email…

V. BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN

320. Qua Bí tích Xức dầu Bệnh nhân, Giáo Hội phó thác những tín hữu bệnh tật hiểm nghèo cho Chúa chịu nạn và vinh quang để Người nâng đỡ và cứu chữa họ129.

321. Mọi linh mục và chỉ có linh mục mới cử hành thành sự Bí tích Xức dầu Bệnh nhân130.

322. Nên cử hành Bí tích Xức dầu Bệnh nhân cho các bệnh nhân trong giáo xứ vào ngày Quốc tế Bệnh nhân (11/2)131.

323. Việc cử hành Bí tích Xức dầu Bệnh nhân phải được thực hiện cẩn thận với những lời đọc, theo thứ tự và thể thức đã được quy định trong sách Phụng vụ.

324. Khi ban Bí tích Xức dầu trong Thánh lễ, linh mục mặc phẩm phục trắng và dùng bản văn Phụng vụ của lễ cầu cho bệnh nhân. Tuy nhiên, nếu trùng vào các Chúa nhật mùa Vọng, Chay, Phục Sinh, các Lễ trọng, Thứ Tư lễ Tro và suốt Tuần Thánh thì phải dùng bản văn Phụng vụ và bài đọc Kinh Thánh theo các ngày lễ đó.

325. Chỉ ban Bí tích Xức dầu Bệnh nhân cho các bệnh nhân nặng, cho người già yếu, cho những ai sẽ phải trải qua cuộc giải phẫu có thể nguy hiểm đến tính mạng của họ. Sau sáu tháng, có thể tái trao ban Bí tích Xức dầu Bệnh nhân cho người cần lãnh nhận

326. Linh mục vẫn có thể ban Bí tích Xức dầu khi bệnh nhân bất tỉnh hay mất trí132. Vì không thể giải tội trong trường hợp này, linh mục chỉ ban ơn toàn xá hay phép lành Tòa Thánh133.

327. Linh mục không ban Bí tích Xức dầu Bệnh nhân cho bệnh nhân đã chết. Trong trường hợp hồ nghi, linh mục có thể ban ơn toàn xá và Bí tích Xức dầu với điều kiện: “Nếu (ông/ bà, anh/chị) còn sống, thì nhờ việc xức dầu này và nhờ lòng từ bi nhân hậu Chúa…”134.

328. Linh mục không được ban Bí tích Xức dầu Bệnh nhân cho những người cố chấp sống trong tội trọng công khai135.

329. Vì lý do đặc biệt của bệnh nhân, thay vì xức dầu trên trán và hai tay, linh mục có thể xức dầu trên chi thể khác thích hợp hơn136. Trừ khi có một lý do nghiêm trọng khuyên dùng một dụng cụ, thừa tác viên phải xức dầu trực tiếp bằng chính tay mình137.

VI. BÍ TÍCH HÔN PHỐI

A. Thủ tục hôn nhân thông thường

Thủ tục đăng ký

330. Trình diện cha xứ138: Đôi bạn trình diện cha xứ, trước khi đăng ký kết hôn phần đời139.

331. Cha xứ đề nghị đôi bạn điền tờ khai điều tra tiền hôn nhân, điều này giúp cha xứ biết rõ tình trạng hôn nhân của đương sự để biết hướng lo liệu.

332. Nơi cử hành hôn phối: Theo Giáo luật điều 1115, đôi dự hôn được quyền xin cử hành hôn phối tại giáo xứ của bên nam hoặc bên nữ, hoặc tại một nơi khác khi có lý do chính đáng, với phép của Đấng Bản quyền riêng hay của cha xứ riêng140.

333. Theo qui định của Giáo tỉnh Hà Nội, thời gian từ lúc trình diện đến lúc cử hành thông thường là ba tháng, trường hợp dự tòng xin Rửa tội, rồi cử hành Bí tích Hôn phối là sáu tháng.

Trách nhiệm thụ lý hồ sơ

334. Trách nhiệm thụ lý hồ sơ thuộc về cha xứ nơi cử hành hôn phối. Các cha xứ liên hệ có nghĩa vụ cộng tác như: viết giấy giới thiệu, điều tra hôn phối, cấp chứng chỉ Bí tích Rửa tội và Thêm sức.

335. Hồ sơ hôn phối: Cha xứ nơi cử hành hôn phối tiến hành và thu thập hồ sơ cần thiết, gồm: 1) Giấy giới thiệu kết hôn141; 2) Giấy chứng nhận Rửa tội không quá 6 tháng và chứng nhận Thêm sức142; 3) Tờ khai trước khi kết hôn143; 4) Giấy rao hôn phối; 5) Giấy chứng chỉ giáo lý hôn nhân144; 6) Giấy đăng ký kết hôn dân sự145; 7) Giấy miễn chuẩn ngăn trở hôn phối khác đạo hay các ngăn trở khác, nếu cần146.

Rao hôn phối147

336. Làm giấy rao: Cha xứ nơi cử hành hôn phối làm giấy rao hôn phối và gửi cho các cha xứ liên hệ148.

337. Thủ tục rao: Rao ba lần, trừ trường hợp có lý do chính đáng được miễn rao149.

338. Kết quả rao: Các cha đã rao phải gửi lại tờ rao hôn phối cho cha xứ nơi cử hành hôn phối, cùng lời ghi chú nếu có vấn đề quan trọng hay hoài nghi150.

339. Hôn nhân cùng đạo và khác đạo đều phải rao theo Giáo luật.

Học giáo lý hôn nhân

340. Trong Giáo tỉnh Hà Nội, thời gian học giáo lý hôn nhân kéo dài ba tháng. Người ngoài chưa rửa tội muốn gia nhập đạo và kết hôn với người Công giáo phải học cả giáo lý hôn nhân và dự tòng. Thời gian học giáo lý dự tòng thường là sáu tháng. Có thể học giáo lý ở nơi thuận tiện, nhưng nếu học ở nơi khác, cần có giấy giới thiệu của cha xứ.

341. Chứng chỉ Giáo lý có giá trị vô thời hạn.

Cử hành hôn nhân và những việc liên hệ

342. Trong việc cử hành hôn nhân, nên diễn tả tính cách long trọng của lễ cưới ra bên ngoài một cách thích đáng, kể cả trong việc trang trí thánh đường. Tuy nhiên, phải hết sức tránh sự phân biệt giữa các cá nhân hay giai cấp xã hội151.

343. Thông thường, phải cử hành Bí tích Hôn phối trong Thánh lễ152

344. Hôn nhân giữa một người Công giáo và một người có rửa tội ngoài Công giáo, phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân ngoài Thánh lễ, trừ khi cần thiết và có phép của Đấng Bản quyền địa phương153.

345. Hôn nhân của một người Công giáo với một người dự tòng hay chưa Rửa tội, thì dùng nghi thức hôn nhân khác đạo, và làm ngoài Thánh lễ.

346. Các đôi bạn dự hôn đã có thai, các cha xứ cần lấy lòng bác ái mục tử lo liệu cho họ154. Chính đôi bạn phải có lòng ăn năn sám hối.

347. Đối với một số các bạn trẻ đã sống chung như vợ chồng, sau đó mới xin cử hành hôn phối, các cha xứ cần kiên trì, nhẹ nhàng dùng giáo huấn của Hội Thánh để dạy dỗ, không nên đe phạt. Lưu ý, không hợp thức hôn nhân nếu thấy đôi bạn không có triển vọng bền vững hay không có ý định sống chung lâu dài.

348. Chưa đủ tuổi kết hôn dân sự: Giáo luật không ủng hộ, trái lại còn yêu cầu “các vị chủ chăn các linh hồn phải liệu sao để ngăn cản việc cử hành hôn nhân của những người trẻ chưa tới tuổi, mà phong tục địa phương chấp nhận cho kết hôn”155.

349. Chưa đủ tuổi kết hôn dân sự mà có thai: Không nên cử hành hôn phối trong hoàn cảnh này, vì ảnh hưởng đến tự do ưng thuận kết hôn. Giải pháp tốt nhất là đợi đến khi đủ tuổi. Hai người cùng trách nhiệm lo cho thai nhi và việc sinh con. Đôi bạn được mời gọi bình tĩnh để chấp nhận, và nhất là hai gia đình được mời gọi cảm thông, yêu thương để đôi bạn được khích lệ chấp nhận hoàn cảnh, và sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm đối với bào thai. Đến lúc đủ tuổi theo luật đạo đời (luật dân sự) mà họ vẫn còn yêu thương và quyết định kết hôn, thì Giáo Hội sẽ cử hành đầy đủ phép cưới (nghi thức hôn phối) cho họ.

350. Giấy thông báo kết hôn: Sau khi cử hành hôn lễ, cha xứ nơi cử hành hôn phối phải gửi giấy thông báo kết hôn cho cha xứ nơi đương sự được rửa tội để ghi vào Sổ Rửa tội156, cũng nên gửi cho các cha xứ liên hệ như cha xứ bên nam hoặc bên nữ, hay cả hai cha xứ trong trường hợp đôi bạn cử hành hôn phối ở nơi khác157.

351. Cấp sổ Gia đình Công giáo: Cha xứ nơi cử hành hôn phối có trách nhiệm cấp sổ Gia đình Công giáo.

352. Kết hôn giả: Không thể chấp nhận việc giả vờ kết hôn dân sự với một người nào đó vì lý do để được bảo lãnh ra nước ngoài. Cấm các cha cộng tác trong việc này như giả vờ chụp hình làm phép cưới để làm hồ sơ xin thị thực.

B. Hôn nhân hỗn hợp

353. Khái niệm: Hôn nhân hỗn hợp là hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội, mà một bên thuộc Giáo Hội Công giáo và bên kia thuộc một Giáo Hội hay một cộng đoàn Giáo Hội Ki-tô giáo không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo158.

354. Cần xin phép: Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép minh nhiên của giáo quyền159.

355. Hồ sơ: Hồ sơ và điều kiện để xin phép cử hành hôn nhân hỗn hợp cũng tương tự như hồ sơ xin miễn chuẩn hôn nhân khác đạo160.

356. Trường hợp đã có hôn phối trước: Không nhận hồ sơ hôn phối của người đã được rửa tội ngoài Giáo Hội Công giáo (ví dụ: Tin lành, Chính thống…) đã có hôn phối thành sự, dù đã ly dị phần đời161.

357. Nghi thức hôn phối: phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân ngoài Thánh lễ, trừ khi cần thiết và có phép của Đấng Bản quyền địa phương162.

C. Hôn nhân khác đạo

358. Hồ sơ: Các đôi hôn phối khác đạo cũng phải làm đầy đủ thủ tục hồ sơ như trường hợp hôn phối thông thường, đồng thời kèm thêm giấy miễn chuẩn hôn phối khác đạo163.

359. Tiếp đón: Cha xứ cần dành thời giờ tiếp xúc với đôi hôn phối và nhất là cha mẹ bên ngoại giáo. Kinh nghiệm cho thấy thái độ tiếp đón thân tình, tinh thần đối thoại và sự kiên nhẫn giảng giải giúp giải tỏa được rất nhiều ngộ nhận và đôi khi còn đưa người phối ngẫu ngoại giáo đến chỗ tự nguyện đón nhận đức tin.

360. Điều kiện miễn chuẩn: Cha xứ cần quan tâm giải thích để đôi bạn dự hôn hiểu rõ và chu toàn những điều kiện cần thiết để được miễn chuẩn hôn phối khác đạo như được quy định trong Giáo luật164.

361. Trường hợp có thể không miễn chuẩn: Việc ban phép chuẩn là một đặc ân Đấng Bản quyền có thể ban, chứ không phải là nghĩa vụ buộc ngài phải ban. Do đó, nếu ngài xét thấy việc ban phép chuẩn không đủ lý do chính đáng hoặc không thuận lợi, trái lại còn có thể có nguy hại cho bên Công giáo và con cái sau này, thì ngài có quyền từ chối không ban phép chuẩn. Và điều đó chỉ vì ích lợi thiêng liêng của chính con cái Giáo Hội.

362. Trường hợp không miễn chuẩn: Lưu ý không nhận đơn xin miễn chuẩn hôn nhân khác đạo, nếu bên không rửa tội đã có một hôn nhân tự nhiên, dù đã ly dị phần đời165. Trong trường hợp này, đương sự (tức bên không rửa tội) có thể được hưởng đặc ân Thánh Phao-lô, nếu trở lại đạo.

363. Nghi thức: Chỉ được cử hành ngoài Thánh lễ, và không cho rước lễ.

D. Hôn nhân theo Đặc ân Thánh Phao-lô

364. Giáo phận giữ quyền xét hồ sơ trong các nố hôn nhân Đặc ân Thánh Phao-lô. Vì thế, chỉ có thể cử hành hôn nhân theo đặc ân Thánh Phao-lô sau khi đã có thư trả lời từ Tòa Giám mục.

365. Người xin Đặc ân đã hoàn toàn đổ vỡ hôn nhân đầu và không thể hàn gắn: đã ly hôn và có quyết định ly hôn dân sự (không thể xét nếu chưa ly hôn dân sự).

366. Bắt buộc phải điều tra hôn nhân cả ba đối tượng: người Công giáo, người tân tòng đang xin đặc ân và người vợ/chồng cũ của người tân tòng đang xin đặc ân về các ngăn trở hôn phối, về tình trạng tôn giáo.

367. Bắt buộc phải thẩm tra (interpellatio)166 cho dù đã có giấy ly hôn dân sự167. Nếu đã cố gắng hết sức mà không thể thẩm tra hoặc thấy rõ có thẩm tra cũng vô ích (chẳng hạn người vợ/chồng cũ của người tân tòng vẫn chưa rửa tội và đã tái hôn), phải làm giấy xin Đấng Bản quyền miễn chuẩn thẩm tra nêu rõ lý do168. Đây là điều quan trọng ảnh hưởng tới việc thành sự hôn nhân.

368. Đức tin là yếu tố được ưu tiên và phải có trong trường hợp này, vì thế không rút ngắn thời gian dự tòng, phải học đầy đủ tối thiểu 6 tháng. Nếu có hồ nghi về sự chân thành trở lại đạo của người xin đặc ân thì đặc ân không được ban, kể cả khi đã được rửa tội169.

369. Nếu người Công giáo là nguyên nhân khiến họ bỏ vợ/chồng để kết hôn với người Công giáo thì không thể cử hành hôn nhân theo Đặc ân Thánh Phao-lô.

370. Vì nhiều khó khăn trong việc hỏi ý kiến người phối ngẫu trước kia, Giáo phận Hà Nội không nhận Hồ sơ xin Đặc ân Phao-lô đối với Việt kiều hay ngoại kiều.

E. Người tổ chức đám cưới bất hợp pháp

371. Một người Công giáo mà không cử hành hôn nhân theo phép đạo (theo Nghi thức của Hội Thánh), thì không những hôn nhân của họ bất thành, bất hợp pháp, mà bản thân họ còn không được rước lễ theo quy định của Giáo luật, điều 915170.

372. Những người đã tích cực, chủ động tham dự đám cưới không theo phép đạo như thế, thì vi phạm cách nặng giáo lý về Bí tích Hôn phối. Giáo luật không có quy định một hình phạt nào cho tội này. Do đó, theo luật chung, thì không là một “tội phạm hình sự”, mà thuộc “tội luân lý”. Tội luân lý thì được tha qua Bí tích Giải tội với điều kiện ăn năn, dốc lòng chừa, xưng tội171.

373. Nhưng tội cố tình tổ chức “đám cưới bất hợp pháp” và mời khách dự tiệc, không chỉ là vấn đề của lương tâm cá nhân người đó với Chúa, mà cũng đặt vấn đề nghiêm trọng cho kỷ luật của Giáo Hội, vì gây một thiệt hại khách quan trầm trọng cho sự hiệp thông Giáo Hội, làm cớ vấp phạm cho các tín hữu. Do đó, Hội đồng Giáo hoàng giải thích các văn bản luật pháp đã ra một tuyên bố kêu gọi: “Các vị chủ chăn phải có hành động, vừa kiên nhẫn mà cũng vừa kiên quyết, để bảo vệ sự thánh thiện của Bí tích (Hôn phối và Thánh Thể), bảo vệ luân lý Ki-tô giáo và để huấn luyện lương tâm các Ki-tô hữu”172.

374. Trong truyền thống Tổng Giáo phận Hà Nội, những ai cố ý và chủ động tổ chức, tham dự đám cưới không theo phép đạo, có thể bị tạm ngưng việc rước lễ một thời gian. Các cha xứ cần khôn ngoan suy xét từng trường hợp với đức ái mục tử, để vừa tôn trọng kỷ luật của Hội Thánh, vừa thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa.

F. Cử hành Bí tích Hôn phối

375. Trước khi cử hành Bí tích Hôn phối, phải chắc chắn là không có ngăn trở nào khiến việc cử hành không thành sự hay bất hợp pháp173.

376. Chỉ những thừa tác viên có năng quyền chứng hôn do chức vụ hoặc do được ủy nhiệm mới có thể chứng hôn thành sự174.

377. Hôn phối phải được cử hành tại nhà thờ giáo xứ của bên nam hoặc bên nữ, hay tại một giáo xứ khác khi có lý do chính đáng với phép của Đấng Bản quyền hoặc của cha xứ175.

378. Nếu hôn phối được cử hành giữa hai người Công giáo thì nên cử hành trong Thánh lễ176.

379. Nếu hôn phối được cử hành giữa một người Công giáo và một người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội nhưng không Công giáo, như Tin lành, Chính thống, Anh giáo… thì phải dùng Nghi thức Hôn phối được cử hành ngoài Thánh lễ. Trong trường hợp đặc biệt, nếu Đấng Bản quyền địa phương cho phép, có thể cử hành Nghi thức Hôn phối trong Thánh lễ, nhưng bên không Công giáo không được phép rước lễ177.

380. Nếu hôn phối được cử hành giữa một người Công giáo với một người dự tòng hay chưa rửa tội đã được Bản quyền miễn chuẩn theo Giáo luật phải dùng nghi thức hôn nhân khác đạo, cử hành ngoài Thánh lễ, tại nhà thờ hay một nơi nào thuận tiện và không có phần rước lễ178.

381. Cử hành Bí tích Hôn phối trong Thánh lễ nhưng dùng bản văn theo ngày lễ khi gặp những ngày sau:

– Các Lễ trọng buộc cũng như các Lễ trọng không buộc;

– Các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục Sinh;

– Lễ Tro và các ngày trong Tuần Thánh;

– Lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời (02/11);

– Các ngày trong tuần Bát Nhật Phục Sinh.

382. Khi gặp những ngày này, phải cử hành Thánh lễ theo ngày Phụng vụ và đọc tất cả các bài Sách thánh của ngày hôm đó. Nếu không phải là Lễ trọng, thì cũng có thể đọc một bài Sách thánh về hôn phối179. Trong Thánh lễ, vẫn đọc lời cầu nguyện cho đôi tân hôn và cuối Thánh lễ có thể dùng công thức ban phép lành cho đôi tân hôn.

383. Cử hành Bí tích Hôn phối trong Thánh lễ với bản văn Thánh lễ hôn phối:

– Các Chúa nhật mùa Giáng Sinh và mùa Thường Niên, nếu Thánh lễ có cộng đoàn giáo xứ (giáo họ) tham dự, thì phải dùng bản văn Thánh lễ Chúa nhật, nhưng có thể đọc một bài đọc về hôn phối. Nếu Thánh lễ Chúa nhật không có cộng đoàn giáo xứ (giáo họ) tham dự, nghĩa là chỉ có những người thuộc gia đình đôi hôn nhân, thì được phép cử hành toàn bộ bản văn và bài đọc Thánh lễ hôn phối180.

G. Ký sổ Hôn phối

384. Các linh mục sau khi cử hành Nghi thức Chứng hôn, phải liệu cho những người liên hệ ký Sổ Hôn phối.

385. Việc ký Sổ Hôn phối phải được thực hiện sau khi đã cử hành xong nghi thức và tách rời khỏi Thánh lễ.

386. Không ký sổ trên bàn thờ.

387. Cha xứ cần ký nhận và đóng dấu Sổ gia đình Công giáo.

VII. HƯỚNG DẪN CỬ HÀNH PHỤNG VỤ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI

388. Từ tháng 11/2021, Tổng Giáo phận sẽ cử hành lễ các Thánh Tử đạo quê quán Tổng Giáo phận và các Thánh Tử đạo có liên hệ với Tổng Giáo phận theo hai bậc lễ riêng của Tổng Giáo phận:

– Bậc lễ kính: Tại nơi sinh, nơi làm mục vụ, nơi chịu tử đạo, nơi an táng hoặc nơi có liên hệ với Thánh Tử đạo;

– Bậc lễ nhớ: Tại tất cả các nhà nguyện, nhà thờ trong Tổng Giáo phận Hà Nội.

389. Nếu ngày mừng lễ các Thánh Tử đạo Tổng Giáo phận trùng với các ngày lễ khác trong lịch Phụng vụ chung của Giáo Hội (Lễ nhớ, Lễ kính, Lễ trọng, Lễ Chúa nhật…) thì sẽ được dời vào ngày khác phù hợp với luật Phụng vụ.

390. Bản văn sử dụng trong Thánh lễ: Sách lễ Rôma, phần chung các Thánh Tử đạo.

391. Ngoài việc cử hành Thánh lễ, các linh mục có thể tổ chức các việc đạo đức khác để mừng kính các Thánh Tử đạo, như rước kiệu, tam nhật… miễn là tuân theo luật Phụng vụ.

392. Danh sách các Thánh tử đạo quê hương Tổng Giáo phận Hà Nội và các Thánh tử đạo liên quan (xem phần phụ lục).

VIII. ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI THĂM VIẾNG MỤC VỤ, KINH LÝ181

A. Sách Nghi thức Giám mục – Caeremoniale Episcoporum182

393. Khi Giám mục thi hành nhiệm vụ thăm viếng các giáo xứ và các cộng đoàn địa phương trong Giáo phận của ngài, thì đừng để cho người ta xem như ngài chỉ làm một phận vụ thuần túy hành chính, mà phải cho họ nhận thấy rõ ngài là người rao giảng Tin Mừng, là Tiến sĩ, là Chủ chăn, và Thượng tế của đoàn chiên của ngài.

394. Để có thể đạt được như vậy, phải hết sức liệu cho cuộc thăm viếng của Giám mục trùng vào những ngày mà tín hữu có thể qui tụ đông đảo, đồng thời, các linh mục cũng phải liệu sao có đủ thời gian, dùng giáo lý thích hợp chuẩn bị tâm hồn cho các tín hữu. Cuộc viếng thăm lại phải đủ dài để Giám mục có thể nhận xét, cổ động, khuyến khích và giúp điều hòa việc Tông đồ của các linh mục và giáo dân cùng các việc từ thiện, cũng như chủ sự các buổi cử hành Phụng vụ.

395. Giám mục mặc phẩm phục như đã nói ở số 63 (sách NTGM), được đón tiếp một cách xứng hợp theo điều kiện địa phương và các sự việc. Nếu thuận lợi, thì giáo sĩ, giáo dân sẽ long trọng đón tiếp và kính chào ngài ở cửa nhà thờ hay chính trong nhà thờ. Nơi nào thấy làm được và thuận lợi, thì cũng có thể ca hát long trọng rước ngài đến nhà thờ. Đón tiếp Giám mục một cách long trọng nhưng đơn sơ sẽ là dấu chỉ lòng yêu mến và tôn kính của tín hữu đối với vị chủ chăn của mình.

396. Cha quản xứ mặc áo alba và áo choàng (cappa), đứng đón Giám mục ở cửa nhà thờ, trao ảnh chuộc tội để ngài hôn, rồi đưa dùi rảy nước thánh cho Giám mục rảy trên mình ngài và trên những người có mặt. Sau khi thinh lặng cầu nguyện một lát ở trước Mình Thánh, Giám mục tiến lên cung thánh. Cha quản xứ đứng trước bàn thờ mời gọi tín hữu cầu nguyện cho Giám mục. Thinh lặng cầu nguyện giây lát, cha quản xứ đọc lời nguyện “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu” hoặc “Lạy Chúa, Chúa vừa làm chủ vận mạng con người” như in trong Sách Lễ (phần Thánh lễ cho các nhu cầu khác – 3. Cầu cho Giám mục, mẫu A, trang 900).

397. Tiếp theo, Giám mục chào dân chúng, trình bày các việc ngài sẽ làm trong thời gian thăm viếng. Cuối cùng, ngài đọc lời nguyện về tước hiệu nhà thờ hoặc về thánh Bổn mạng địa phương. Như thường lệ, để khép lại, ngài ban phép lành cho dân chúng và cha quản xứ sẽ giải tán họ về.

398. Nếu sau đó có Thánh lễ thì sau lời nguyện cầu cho Giám mục, ngài đến Tòa mặc phẩm phục để dâng lễ.

399. Các linh mục săn sóc các linh hồn trong giáo xứ hay các linh mục đang ở trong địa giới giáo xứ, hãy đồng tế với ngài. Các tín hữu hãy tham dự cách tích cực. Đặc biệt trong những nơi hẻo lánh của Giáo phận mà dân cư ít khi hay chẳng khi nào có thể dự Thánh lễ đại triều của Giám mục tại địa phương của mình thì nên tổ chức như vậy.

400. Để tín hữu thấy rõ Giám mục trước hết là người ban phát các mầu nhiệm của Chúa cũng như là người điều hành và gìn giữ tất cả đời sống Phụng vụ trong Giáo phận được trao phó cho ngài, thì trong cuộc viếng thăm mục vụ nên sắp xếp để ngài không chỉ ban Bí tích Thêm sức, mà cả các Bí tích khác nữa, nhất là trong việc thăm viếng bệnh nhân.

401. Nếu cuộc viếng thăm kéo dài, thì tại nhà thờ, nên cử hành Phụng vụ giờ Kinh hay Phụng vụ Lời Chúa với bài giảng của Giám mục và cầu nguyện cho Hội Thánh toàn cầu cũng như cho Giáo phận.

402. Tùy nghi, Giám mục cũng nên cùng dân chúng đi đến Đất Thánh, đọc kinh cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, và giữ những điều nói ở số 399 (sách NTGM)…về việc rảy nước thánh trên các phần mộ.

B. Nghi thức đón Đức Tổng Giám mục Hà Nội

Căn cứ theo Sách Nghi thức Giám mục các số nêu trên, nghi thức đón Đức Tổng Giám mục Hà Nội diễn ra như sau:

403. Cha xứ (cha quản nhiệm) mặc áo alba và áo choàng (cappa) (CE, số1180).

404. Tại cửa nhà thờ hoặc trong nhà thờ, linh mục trao ảnh chuộc tội để Đức Tổng Giám mục hôn, rồi đưa dùi rảy nước thánh cho Đức Tổng Giám mục rảy trên mình ngài và trên những người có mặt. Ngài tiến vào nhà thờ và quỳ gối cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa (CE, số 1179).

405. Linh mục xướng kinh cầu nguyện cho Đức Tổng Giám mục:

– Kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, Tin Kính.

– Linh mục đọc lời nguyện (Một trong ba lời nguyện nhập lễ trong Thánh lễ “Cầu cho Đức Giám mục”, Sách lễ Rôma, trang 900-901 – CE, số 1180).

406. Đức Tổng Giám mục ngỏ lời với cộng đoàn dân Chúa.

407. Chuẩn bị Thánh lễ.

408. Các linh mục đang làm mục vụ tại Giáo hạt hoặc gần nhà thờ mà Đức Tổng Giám mục thăm viếng mục vụ cần đồng tế Thánh lễ với ngài (CE, số 1181).

409. Chỉ sử dụng nghi thức này khi Đức Tổng Giám mục Hà Nội đi thăm viếng mục vụ, kinh lý. Không sử dụng nghi thức này khi Đức Tổng Giám mục tới giáo xứ, giáo họ dâng lễ với tính cách riêng tư, chẳng hạn lễ an táng, cầu hồn hoặc dịp nào khác….

410. Không tổ chức đón rước rầm rộ ngoài quốc lộ, gây mất an toàn giao thông. Chỉ cần một hai xe máy làm hoa tiêu dẫn đường cho xe Bề trên. Giáo dân có thể đón rước trọng thể tại lối vào khuôn viên nhà thờ.

PHẦN II. CÁC Á BÍ TÍCH

411. Các Á bí tích phải được cử hành đúng theo quy định của Giáo luật (x. đ. 1166-1172) và Phụng vụ.

412. Trước khi cử hành Á Bí tích, thừa tác viên cần phải xem kỹ hướng dẫn cử hành được ghi trong mục “Những điều cần biết trước”.

413. Trong trường hợp thông thường, khi cử hành Á Bí tích, tư tế cần phải mặc alba và đeo dây stola, các thừa tác viên không có chức thánh cần phải mặc y phục theo quy định.

—————————

44. X. Giáo luật, đ. 851, 2o.

45. X. Giáo luật, đ. 851, 2o; 872. Việc huấn giáo này càng cần thiết hơn trong trường hợp cha mẹ không nhập tịch giáo xứ và không sống đạo.

46. Xem mẫu chung.

47. X. Giáo luật, đ. 868 §1.

48. Ibid., đ. 867 §2; 868 §2.

49. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1284.

50. X. Giáo luật, đ. 891.

51. Ibid., đ. 871.

52. Ibid., đ. 857 §2.

53. Ibid., đ. 857 §1.

54. Ibid., đ. 1055.

55. X. BỘ PHỤNG TỰ, Nghi thức gia nhập Kitô giáo của người lớn (NTGNKTGNL), Những điều cần biết trước, số 7.

56. Ibid., Những điều cần biết trước, số 6.

57. Ibid., Những điều cần biết trước, số 16.17.42.43: Về người bảo lãnh và người đỡ đầu.

58. X. Giáo luật, đ. 852 §1.

59. Ibid., đ. 852 §1; đ. 883, 2o.

60. X. Giáo luật, đ. 866; NTGNKTGNL, Những điều cần biết trước, số 34.

61. UBGM VỀ PHỤNG VỤ, Nghi thức gia nhập Kitô giáo của người lớn, Sài Gòn, 1974, Phần Phụ lục, 341-366.

62. X. Nghi thức Thêm Sức, Những điều cần biết trước, số 7; cũng xem Nghi thức thâu nhận những người đã rửa tội thành sự vào thông công đầy đủ với Hội Thánh Công giáo, Những điều cần biết trước, số 8, trong Nghi thức gia nhập Kitô giáo của người lớn, tr.341.

63. Giáo luật, đ. 873.

64. Ibid., đ. 874.

65. Giáo luật, đ. 877.

66. Ibid., đ. 881.

67. Ibid., đ. 882.

68. Ibid., đ. 883, 3o.

69. Ibid., đ. 889 §1.

70. Ibid., đ. 891.

71. Ibid., đ. 889 §3.

72. Ibid., đ. 892.

73. Ibid., đ. 874.

74. Ibid., đ. 893 §2.

75. Ibid., đ. 895.

76. Ibid., đ. 932 §1; đ. 1205.

77. Ibid., đ. 909.

78. Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 337; BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn Thị Bí Tích Cứu Độ, số 123.

79. Ibid., số 209; BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn Thị Bí Tích Cứu Độ, số 124.

80. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 126.

81. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 48.

82. Ibid., số 50.

83. Ibid., số 59.

84. Ibid., số 60.

85. Giáo luật, đ. 905 §1.

86. Ibid., đ. 905.

87. Ibid., đ. 948.

88. X. BỘ GIÁO SĨ, Sắc lệnh Mos iugiter, 22.2.1991, trong AAS 83 (1991), 443-446.

89. X. BỘ GIÁO SĨ, Quyết định Prot. N. 20103788 trả lời Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli về việc ban phép gom bổng lễ, 28.11.2011.

90. X. BỘ GIÁO SĨ, Sắc lệnh Mos iugiter, 22.2.1991, trong AAS 83 (1991), 443-446; x. EV 13/6-28.

91. X. Giáo luật, đ. 946.

92. Ibid., đ. 951 §1.

93. Ibid., đ. 951 §1.

94. Ibid., đ. 951 §2.

95  X. Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 204.

96 Các linh mục đồng tế trong các Thánh lễ an táng này không được nhận bổng lễ.

97. Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 85.

98. ỦY BAN PHỤNG TỰ TRỰC THUỘC HĐGM VIỆT NAM, Nghi thức an táng, Nxb. Tôn Giáo, 2014, trang 39-47.

99. BỘ PHỤNG TỰ, Nghi thức an táng, 1969, số 6.

100. “Trong những Thánh lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, thì đứng đầu là lễ an táng. Có thể cử hành lễ này mọi ngày trừ những Lễ trọng buộc, Thứ Năm Tuần Thánh, Tam Nhật Vượt Qua, và các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục sinh. Ngoài ra phải giữ mọi điều luật đã quy định” (IM, số 380).

101. Giáo luật 1917, điều 1240 cấm các nghi lễ an táng cho người tự tử. Thư của Thánh Bộ Giáo lý Đức tin ngày 29 tháng 5 năm 1973 đã bỏ quy định Giáo luật 1917 nói trên.

102. “Khi được tin người chết, ngày cuối của tang lễ, ngày giỗ đầu, có thể cử hành Thánh lễ cầu cho người đã qua đời cả trong những ngày thuộc tuần Bát Nhật Giáng Sinh, những ngày có lễ nhớ buộc, những ngày trong tuần mùa Chay và mùa Phục Sinh mà không phải là thứ Tư Lễ Tro hay Tuần Thánh” (IM, số 381).

103. X. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Notitiae, năm 1977, tr.45.

104. X. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Thư Further to recent, 27/07/2001, trong EV 20/1485.

105. X. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 154.

106. Ibid., số 155.

107. Giáo luật, đ. 231.

108. X. BỘ GIÁO SĨ VÀ CÁC BỘ KHÁC, Huấn thị liên bộ Ecclesiae de mysterio 15.08.1997, đ. 8, trong AAS 89 (1997), 852-877.

109. X. BỘ GIÁO SĨ VÀ CÁC BỘ KHÁC, Huấn thị liên bộ Ecclesiae de mysterio 15.08.1997, đ. 8, trong AAS 89 (1997), 852-877; EV 16/725. Nhu cầu cần thiết như: để phục vụ bệnh nhân xa xôi, hoặc những cộng đoàn phụng vụ rất đông tín hữu rước lễ.

110. X. Giáo luật, đ. 230 §3.

111. X. THÁNH BỘ KỶ LUẬT VÀ BÍ TÍCH, Huấn Thị Fidei custos, 30.4.1969, số 9, trong EV 3/1065.

112. X. Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 339.

113. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 153.

114. X. BỘ GIÁO SĨ VÀ CÁC BỘ KHÁC, Huấn thị liên bộ Ecclesiae de mysterio, đ. 8 §2.

115. X. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, số 244.

116. X. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 159.

117. X. ĐGH. BÊNÊĐÍCTÔ XVI, Tông huấn Bí tích tình yêu, số 92.

118. X. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, số 279.

119. Giáo luật, đ. 966 §1.

120. Ibid., đ. 968.

121. Ibid., đ. 966 §2; 969.

122. Ibid., đ. 967 §2; 969 §1.

123. Ibid., đ. 967 §2; 969 §2.

124. Ibid., đ. 975. Trường hợp tưởng mình còn năng quyền giải tội nhưng thực ra mình đã hết năng quyền thì được Giáo Hội “bù” (x. điều144 §2).

125. Ibid., đ. 976.

126. Ibid., đ. 986.

127. Ibid., đ. 964 §§2 và 3.

128. Ibid., đ. 960; 961.

129. Ibid., đ. 998.

130. Ibid., đ. 1003 §1.

131. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Nghi thức Xức dầu bệnh nhân, 1972, số 80.

132. Ibid., số 14.

133. Ibid., số 106, 122.

134. Ibid., số 15, 135.

135. X. Giáo luật, đ. 1007.

136. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Nghi thức Xức dầu Bệnh nhân, 1972, số 23.

137. X. Giáo luật, đ. 1000 §2.

138. Ibid., đ. 1115.

139. Để tránh những trường hợp đã đăng ký kết hôn dân sự, mà cha xứ lại không thể cử hành hôn phối theo giáo luật được vì có ngăn trở, thí dụ còn ngăn trở dây hôn phối trước. Ngoài ra, vì ích lợi mục vụ và theo văn hóa gia đình Việt Nam, khi đến gặp cha xứ, nên có sự hiện diện của cha mẹ đôi bên, hoặc ít là của cha hoặc mẹ. Trường hợp cha mẹ xa xôi, có thể cho số điện thoại để liên lạc nhờ đó có thể giúp lượng định sự trung thực của đôi bạn cách đầy đủ rõ ràng hơn.

140. Trường hợp cử hành ở nơi khác, xin các cha xứ giúp đỡ họ, như viết giấy giới thiệu và cung cấp những giấy tờ cần thiết (Rửa tội, Thêm sức, v.v…). Trường hợp khác Giáo phận, xin các cha vui lòng giúp đáp ứng theo yêu cầu của Giáo phận đó, như có Giáo phận yêu cầu cha xứ bên nào làm “Tờ khai trước khi kết hôn” bên ấy.

141. Cha xứ có bổn phận cấp giấy giới thiệu, không được từ chối vì lý do đương sự chưa học giáo lý hôn nhân, không đi lễ, v.v…

142. Giấy chứng nhận Rửa tội phải đầy đủ các chi tiết tên tuổi, ngày tháng năm sinh, năm Rửa tội, Thêm sức, tình trạng thong dong, chức Thánh, khấn Dòng, v.v… Nếu đương sự chưa Thêm sức, cha xứ có thể xin phép Đức Giám mục hoặc các linh mục đã được ban năng quyền để ban.

143. Tờ khai trước khi kết hôn và Giấy rao hôn phối phải làm ngay từ đầu để biết trước những ngăn trở, nếu có, và do cha xứ nơi cử hành hôn nhân thực hiện. Nơi nhận được giấy xin rao, thì phải rao theo luật, không được hoãn hay giam lại.

144. Chứng chỉ giáo lý hôn nhân và Giấy Đăng ký Kết hôn dân sự phải hoàn tất trước khi cử hành hôn phối.

145. Để biết chắc đôi bạn đã làm thủ tục về mặt đời theo yêu cầu của pháp luật Việt Nam; và nhất là vì trong giấy đăng ký kết hôn dân sự, thường có ghi chú đương sự kết hôn lần thứ nhất hay lần thứ hai, thứ ba, v.v… cũng là một thông tin hết sức ích lợi cho việc tìm hiểu tình trạng hôn nhân của đôi bạn.

146. Cha xứ chỉ giới thiệu đôi hôn phối xin chuẩn khác đạo sau khi đã điều tra cẩn thận không thấy có ngăn trở nào khác. Hồ sơ ghi cẩn thận đầy đủ, và phải cho ý kiến của mình về đôi ấy.

147. X. Giáo luật, đ. 1067.

148. Khi không thể liên hệ được với cha quản xứ riêng của đương sự, như trường hợp người ngoại giáo mà quá xa nhà thờ, thì để xác nhận tình trạng thong dong, có thể dựa vào giấy của chính quyền chứng thực chưa đăng ký kết hôn lần nào, lời chứng của gia đình cha mẹ đôi bên.

149. Cha xứ có quyền tha rao một lần, Cha quản hạt tha rao hai lần, và Bản quyền địa phương tha rao ba lần.

150. X. Giáo luật, đ. 1069.

151. X. ỦY BAN PHỤNG TỰ TRỰC THUỘC HĐGM VIỆT NAM, Nghi thức cử hành hôn nhân, Những điều cần biết trước, số 31.

152. Ibid., số 29; số 34 nói đến “lễ hôn phối”.

153. Ibid., số 36.

154. Trường hợp đã chung sống và đã có con cái: nếu đôi bạn mong muốn được hợp thức hóa, linh mục xem xét nếu vướng ngăn trở, thì xin miễn chuẩn ngăn trở và cử hành hôn phối cho họ.

155. X. Giáo luật, đ. 1072. Luật Hôn nhân và Gia đình mới nhất do Quốc Hội Việt Nam ban hành ngày 19.6.2014 (Số 52/2014/QH13) quy định về tuổi kết hôn ở điều 8,1.a: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”.

156. X. Giáo luật, đ. 1122.

157. Những nố hôn phối đã cử hành nơi khác và được cha xứ ở đó thông báo qua chứng thư hôn phối là để cha biết, và chỉ ghi chú vào Sổ Rửa tội nếu đương sự rửa tội tại giáo xứ.

158. X. Giáo luật, đ. 1124. Phân biệt với hôn nhân khác đạo, là hôn nhân giữa một người Công giáo và một người không rửa tội (đ. 1086).

159. Phân biệt với hôn nhân khác đạo: chỉ thành sự khi có miễn chuẩn minh thị của giáo quyền (đ. 1086).

160. Gồm: giấy giới thiệu kết hôn, giấy chứng nhận Rửa tội của người thuộc cộng đoàn Giáo Hội khác, giấy rao hôn phối, giấy chứng chỉ giáo lý hôn nhân, giấy Đăng ký Kết hôn dân sự, tờ khai trước khi kết hôn, giấy xin phép cử hành hôn nhân hỗn hợp.

161. Giáo Hội Công giáo không cứu xét và tháo gỡ hôn phối của người thuộc các cộng đoàn Giáo Hội khác.

162. X. Nghi thức Cử hành Hôn nhânNhững điều cần biết trước, số 36.

163. Cha xứ phải tranh thủ cắt nghĩa và giảng giải thêm cho đôi bạn khi giúp họ làm giấy xin tha ngăn trở khác đạo.

Giấy miễn chuẩn hôn phối khác đạo làm thành hai bản, một để cha quản xứ tiến hành hôn phối, một lưu tại Tòa Giám mục.

164. X. Giáo luật, đ. 1125: Bên Công giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được rửa tội và được giáo dục trong Giáo Hội Công giáo; bên không Công giáo phải được thông báo kịp thời để biết và ý thức về lời cam kết và nghĩa vụ của bên Công giáo; đồng thời cả hai bên phải được giáo huấn về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được loại bỏ. Thiếu một trong các điều kiện này, sẽ không đủ điều kiện để được miễn chuẩn.

165. Ibid., đ. 1085; 1086 §§1-2.

166. Mẫu giấy thẩm tra, lấy phần Phụ lục II.

167. Giáo luật, đ. 1144 §§1-2.

168. Có thể theo mẫu đơn gợi ý, lấy ở Phụ lục II.

169. BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn thị Potestas Ecclesiae, năm 2001, đ. 7 §3.

170. Giáo luật, đ. 915: “Những người ngoan cố sống trong tội trọng tỏ tường không được rước lễ”; x. THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn về gia đình Familiaris consortio, 22/11/1981, số 84; Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 11/10/1992, số 1650; BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Thư Năm quốc tế gia đình, 14/9/1994, trong EV 14/1451-1464.

171. X. Giáo luật, đ. 916.

172. HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG GIẢI THÍCH CÁC VĂN BẢN LUẬT PHÁP, Tuyên bố The Code, 26/06/2000, số 1.

173. X. Giáo luật, đ. 1066.

174. Ibid., đ. 1108 §1.

175. Ibid., đ. 1115.

176. X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1621-1622.

177. X. BỘ PHỤNG TỰ, Nghi thức hôn phối, 1990, số 36.

178. Ibid., số 36, 152-178.

179. X. Sách lễ Rôma, trang 845-858.

180 X. Sách lễ Rôma, trang 845-858.

181. x. Giáo luật, đ. 396-398.

182. Nghi thức Giám mục, số 1177-1184.

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org